Dịch vụ luật sư - Tư vấn pháp luật

Đặt câu hỏi

Dịch vụ luật sư, tư vấn pháp luật

Những điều kiện cần khi giao dịch dân sự

Những điều kiện cần khi giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là loại giao dịch phổ biến và thường xuyên xuất hiện xung quanh cuộc sống của chúng ta. Vậy những điều kiện cần khi giao dịch dân sự là gì ? Hãy tham khảo bài viết dưới đây của Legalzone

Những điều kiện cần khi giao dịch dân sự là gì ?

Cơ sở pháp lý: 

– Bộ luật dân sự năm 2015

– Bộ luật dân sự năm 2005

Giao kết hợp đồng.

Năng lực giao kết

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Luật hiện hành nói rằng các giao dịch dân sự phải do người có năng lực hành vi xác lập, thì mới có giá trị (BLDS Ðiều 122 khoản 1).

Sự ưng thuận của bên giao kết

Vai trò của ý chí

Tính độc lập của ý chí.

Học thuyết về tính độc lập của ý chí được thiết lập trong triết học luật. Tư tưởng chủ đạo là: ý chí của con người là luật; con người chỉ bị ràng buộc vào một nghĩa vụ bởi ý chí của mình, một cách trực tiếp trong quan hệ hợp đồng (ý chí đặc thù) hoặc một cách gián tiếp một khi nghĩa vụ do luật áp đặt (ý chí chung được suy đoán). Cũng vì ý chí tạo ra nghĩa vụ mà hợp đồng phải được tự do giao kết. Cá nhân có quyền tự do quyết định giao kết hoặc không giao kết hợp đồng; có quyền tự do quyết định hình thức và nội dung của hợp đồng.

Tính độc lập của ý chí thể hiện trong nội dung của hợp đồng.

Chủ thể của quan hệ pháp luật có quyền tự do giao kết hoặc không giao kết hợp đồng. Quy tắc này được thừa nhận tại BLDS Ðiều 389 khoản 1. Một trong những nội dung của sự tự do giao kết là sự tự do xác định nội dung của hợp đồng: các bên có quyền thỏa thuận về loại hình, đối tượng, điều kiện giao dịch, thời gian, địa điểm giao dịch, trách nhiệm của mỗi bên,… Khi một hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó (Ðiều 409 khoản 1). 

Tính độc lập của ý chí thể hiện trong hình thức của hợp đồng.

Trên nguyên tắc, sự ưng thuận, chứ không phải hình thức, là điều kiện chủ yếu để hợp đồng có giá trị. Một khi cần ràng buộc sự giao kết hợp đồng vào những điều kiện nào đó về hình thức, luật phải có những quy định cụ thể.

Sự bày tỏ ý chí 

– Bày tỏ ý chí rõ ràng.

Gọi là được bày tỏ một cách rõ ràng ý chí được bộc lộ cho người khác. Việc bộc lộ ý chí có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng chữ viết. Cũng có trường hợp ý chí được bộc lộ bằng những cử chỉ mà ý nghĩa được xác định trước bằng các quy ước xã hội.

Ví dụ:

Leo lên xe buýt ở một trạm dừng là hình thức bộc lộ mong muốn giao kết hợp đồng vận chuyển; lấy một món hàng bày trên kệ hàng của một siêu thị và đi đến quầy tính tiền là hình thức bộc lộ mong muốn giao kết hợp đồng mua bán).

– Bày tỏ ý chí mặc nhiên.

Ý chí coi như được bày tỏ một cách mặc nhiên trong trường hợp người bày tỏ ý chí không bộc lộ ý chí một cách rõ ràng mà chỉ có một thái độ cho thấy mong muốn của mình. Thái độ đó không phải là sự tuyên bố ý chí cho người khác biết mà chỉ là sự biểu hiện của ý chí đó. 

Ví dụ:

Sau khi nhận được giấy uỷ quyền, người được uỷ quyền thực hiện các công việc được giao theo hợp đồng uỷ quyền mà không tuyên bố rõ việc chấp nhận của mình đối với sự uỷ quyền đó.

Sự ưng thuận không hoàn hảo

Sự nhầm lẫn

a. Khái niệm (Điều 131 BLDS 2005)

b. Điều kiện xác lập tình trạng nhầm lẫn

Giao kết hợp đồng do nhầm lẫn.

Người giao kết chỉ có thể phản ứng với tư cách người bị nhầm lẫn, một khi chính sự nhầm lẫn đó đã có ảnh hưởng quyết định đối với sự ưng thuận của mình. “Khi một bên do nhầm lẫn…. mà xác lập giao dịch…”. 

Ví dụ:

Một người muốn trang trí phòng khách của mình bằng một bức tranh nào đó thuộc trường phái ấn tượng; được giới thiệu rằng bức tranh muốn mua là của họa sĩ ấn tượng X, người này chấp nhận mua; ít lâu sau, có người phát hiện rằng bức tranh đó là của họa sĩ ấn tượng Y; người mua không thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu, bởi sự nhầm lẫn không ảnh hưởng đến ý chí của người này lúc giao kết hợp đồng: người này quan tâm đến việc tìm kiếm một bức tranh ấn tượng, không phải chỉ quan tâm riêng đến tranh ấn tượng của họa sĩ X.

Bằng chứng của sự nhầm lẫn.

Một cách hợp lý, người cho rằng mình đã nhầm lẫn phải chứng minh sự nhầm lẫn đó. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng bất kỳ phương tiện nào được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ (văn bản, lời khai, lời thú nhận, người làm chứng, đối chất,…). Người nhầm lẫn phải chứng minh không chỉ việc nhầm lẫn mà còn cả tính chất quyết  định của sự nhầm lẫn đối với sự ưng thuận của mình trong việc giao kết hợp đồng. 

c. Hệ quả của sự nhầm lẫn 

Theo quy định của luật, bên bị nhầm lẫn được quyền yêu cầu bên kia thực hiện sử đổi nội dung theo đúng ý chi mà các bên giao kết; nếu bên được đề nghị không thực hiện thì bên bị nhầm lẫn được quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dich dân sự vô hiệu.

Cũng có trường hợp cả hai bên đều nhầm, nhưng việc sửa đối nội dung hợp đồng cũng không khả thi. 

Ví dụ,

A tặng cho B một tài sản vì lầm tưởng rằng B đã cứu mạng mình; thực ra, B cũng đã có cứu mạng một người khác và khi nhận quà tặng của A, nhầm tưởng rằng A chính là người khác đó. Nếu mọi việc sau này trở nên rõ ràng đối với cả hai, thì, suy cho cùng, chẳng có bên nào có lợi ích để sửa đổi nội dung hợp đồng.  

Vô hiệu do nhầm lẫn.

Người có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu phải là người nhầm lẫn. Thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch (BLDS Điều 136 khoản 1).

3.2. Sự lừa dối

a. Khái niệm

Ðịnh nghĩa. Theo BLDS Ðiều 132 BLDS 2005

b. Ðiều kiện của sự lừa dối 

– Người lừa dối không nhất thiết phải là bên kết ước.

Lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba…. Luật Việt Nam đã xây dựng khái niệm lừa dối của người thứ ba. 

– Người kết ước không trung thực.

Việc lừa dối của người kết ước được ghi nhận, một khi người này có hành vi lừa dối chủ động (cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối) 

– Ý định lừa dối.

Người lừa dối phải thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, nghĩa là thực hiện hành vi lừa dối một cách có ý thức với mong muốn có được sự chấp nhận giao kết hợp đồng của người bị lừa dối

– Sự lừa dối phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận. 

c. Hệ quả của sự lừa dối 

Vô hiệu do lừa dối.

Sự lừa dối chịu những biện pháp chế tài khá nghiêm khắc trong luật Việt Nam: người bị lừa dối có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu (Ðiều 132), có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Ðiều 137 khoản 2);  tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức của người lừa dối bị tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật (Ðiều 137 khoản 2). Nếu hành vi lừa dối cấu thành tội phạm, thì người lừa dối có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

3.3. Sự đe dọa

a. Khái niệm

Theo BLDS Ðiều 132 BLDS 2005, đe dọa trong giao dịch dân sự

Là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba nhằm làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích. Luật dùng từ “thực hiện”, nhưng ta có thể nghĩ đến việc “xác lập”: một giao dịch xác lập không phải dưới sự đe dọa không thể bị tuyên bố vô hiệu vì lý do người xác lập bị đe dọa phải thực hiện. 

Ví dụ:

một hợp đồng mua bán tài sản được giao kết một cách tự nguyện; người mua trì hoãn việc trả tiền; người bán dọa sẽ giết người mua, nếu người sau này không trả tiền; người bán sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đe dọa giết người, nhưng người mua không thể xin tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu vì lý do có sự đe dọa của người bán nhằm đốc thúc người mua thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Người mua cũng không thể xin miễn thực hiện nghĩa vụ trả tiền do đã bị đe doạ (một cách không chính đáng)  

b. Ðiều kiện của sự đe dọa  

Người đe doạ.

Luật nói rằng “Ðe dọa… là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba”(điểm khác so với BLDS 1995).Ta có thể thấy rằng đe dọa có thể là hành vi của bất kỳ người nào, không nhất thiết là hành vi của người kết ước với người bị đe dọa. Phải chấp nhận giải pháp vừa nêu, nếu không người bị đe dọa sẽ không được bảo vệ, một khi sự đe dọa xuất phát từ một người thứ ba mà không phải là người kết ước.

Ví dụ:

người chồng vay nợ, Ngân hàng yêu cầu có người bảo lãnh; người chồng buộc người vợ đứng ra bảo lãnh cho mình, người vợ không muốn nhưng không dám phản đối, do bị đe dọa; hợp đồng bảo lãnh được giao kết giữa người vợ và Ngân hàng trong đó, người bảo lãnh đã giao kết dưới sự bảo lãnh mà người bảo lãnh không biết. Người bảo lãnh trong ví dụ đó phải có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Tính chất của sự đe doạ.

Sự đe dọa phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận (miễn cưỡng) của người bị đe dọa, nghĩa là người bị đe dọa chấp nhận giao kết chỉ vì bị đe dọa.  

Người bị đe doạ.

Hành vi đe dọa có thể được thực hiện đối với chính người giao kết hoặc đối với những người thân thích của người này. “Thân thích” hàm nghĩa rằng giữa những người có liên quan có mối quan hệ gia đình: hôn nhân, thân thuộc do huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. 

Ðối tượng của hành vi đe doạ

Có thể là con người (đe doạ dùng vũ lực để gây thương tích, đe doạ công bố các thông tin về đời tư,…) hoặc tài sản (đe doạ đốt nhà, huỷ hoại cây cối, mùa màng,…).

c. Hệ quả của sự đe dọa. 

Xem điều 132 BLDS 2005

Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do có sự đe doạ

Cũng là 2 năm từ ngày xác lập giao dịch (BLDS Điều 136 khoản 1).

Nếu một người nói rằng việc giao kết hợp đồng vì đảm bảo an toàn tính mạng của anh trai mình. Như vậy giao dịch đó có được xem là bị đe dọa hay không?Tại sao?

4. Trao đổi ý chí 

4.1. Ðề nghị giao kết hợp đồng

a. Khái niệm. 

Ðề nghị giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một người về việc mong muốn giao kết hợp đồng với một người khác trên một đối tượng và trong những điều kiện đã được người đề nghị xác định rõ. Ðề nghị có thể được gửi đến một người đối tác xác định hoặc không xác định (đề nghị với công chúng). 

Đề nghị giao kết hợp đồng khác với đề nghị thương lượng như thế nào ? Nêu ví dụ.

b. Hình thức đề nghị (Điều 124 BLDS 2005) tuơng tự như hình thức của hợp đồng dân sự.

c. Các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng. 

Ðề nghị giao kết hợp đồng sẽ trở thành hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận giao kết theo các điều kiện được đưa ra trong đề nghị đó. 

Ðề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn. 

Ðề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ

d. Hiệu lực:

– Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực ( Điều 391 BLDS 2005)

+ Ghi rõ trong lời đề nghị

+ Nếu không ghi rõ, thì hiệu lực phát sinh khi bên được đề nghị nhận được lời đề nghị đó.

– Thay đổi, rút lại lời đề nghị giao kết hợp đồng.(Điều 392 BLDS 2005)

– Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. (Điều 393 BLDS 2005)

4.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

a. Khái niệm. Điều 396 BLDS 2005

Sự im lặng. 

Sự im lặng cũng được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận ( diễn dịch BLDS Ðiều 404 khoản 2). Cần lưu ý câu chữ của luật: “nếu có thỏa thuận…”.

Chấp nhận không điều kiện.

Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải không kèm theo một điều kiện nào do người được đề nghị đưa ra. Trong trường hợp ngược lại, ta có một đề nghị mới về phía người được đề nghị. Đề nghị mới trước hết mang ý nghĩa của một lời từ chối đối với đề nghị cũ và, do đó, theo BLDS Điều 394 khoản 1, có tác dụng làm mất hiệu lực của đề nghị cũ (trong trường hợp đề nghị cũ chưa hết thời hạn hiệu lực do người đề nghị cũ ấn định). 

Chấp nhận tự nguyện.

Việc chấp nhận đề nghị phải hoàn toàn tự nguyện. Chấp nhận toàn bộ và chấp nhận một phần. Trên nguyên tắc, đề nghị giao kết hợp đồng phải được chấp nhận toàn bộ. Nếu người được đề nghị chỉ chấp nhận một phần đề nghị, thì sự chấp nhận đó có giá trị như một lời đề nghị khác.   

b. Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Ðiều 397 khoản 1)

C. Diễn đạt và trao đổi ý chí một cách gián tiếp: đại diện

1. Khái niệm: Điều 139 khoản 1 BLDS 2005

2. Ðiều kiện của việc đại diện. 

Ðể hợp đồng được giao kết một cách có giá trị thông qua vai trò của người đại diện, thì người này phải có quyền đại diện và phải bày tỏ ý chí giao kết với tư cách người đại diện.

Quyền đại diện.

Quyền đại diện có thể do luật xác định, như trong hầu hết trường hợp đại diện theo luật: quyền của người giám hộ đại diện cho người được giám hộ; quyền của cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên. Có khi quyền đại diện do luật thiết lập nhưng nội dung quyền này lại do tòa án xác định, như trường hợp quyền của người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quyền đại diện theo ủy quyền phải phát sinh từ một hợp đồng ủy quyền được giao kết phù hợp với pháp luật.

Phạm vi đại diện ( Điều 144, 245, 146 BLDS 2005)
Ý chí đại diện. 

Người đại diện phải bày tỏ ý chí về việc giao kết hợp đồng với tư cách người đại diện, nghĩa là người bày tỏ ý chí thay cho một người khác và dưới danh nghĩa của người sau này. Không làm việc đó, người bày tỏ ý chí được coi như giao kết dưới danh nghĩa của chính mình.

3. Hiệu lực của việc đại diện

– Nếu việc thực hiện của người đại diện trong phạm vi đại diện: ràng buộc nghĩa vụ đối với người được đại diện.

– Nếu việc thực hiện của người đại diện ngoài phạm vi đại diện: không ràng buộc nghĩa vụ đối với người được đại diện(trừ 1số trường hợp).

5. Sự trung thực trong giao kết hợp đồng

5.1 Khái niệm: Điều 129 BLDS 2005

Hợp đồng giả tạo là sự thỏa thuận của các bên giao kết về việc che giấu ý chí thực của các bên bằng một hợp đồng được giao kết nhưng không được thực hiện.

– Hợp đồng khống

– Hợp đồng che giấu 

– Hợp đồng giấu mặt

5.2 Hiệu lực: Giao dịch giả tạo sẽ bị vô hiệu, còn giao dịch che giấu vẫn có giá trị

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Legalzone để được tư vấn miễn phí

Xem thêm: Tranh chấp về vấn đề dân sự khác

Chia sẻ:
{{ reviewsTotal }}{{ options.labels.singularReviewCountLabel }}
{{ reviewsTotal }}{{ options.labels.pluralReviewCountLabel }}
{{ options.labels.newReviewButton }}
{{ userData.canReview.message }}
Danh mục