Hành vi xâm hại trẻ em
Liên quan đến hành vi xâm hại trẻ em, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã bổ sung thêm một tội mới: Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em theo Bộ luật Hình sự mới có gì nổi bật? Theo dõi LegalZone trong bài viết dưới đây.
Theo thống kê, trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm nước ta có hơn 1000 trẻ em bị xâm hại tình dục. Với loại tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, pháp luật hiện hành đã có những quy định xử phạt rất cụ thể.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã dành ra 05 điều quy định về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em (tăng 01 điều so với BLHS năm 1999), đồng thời cụ thể hóa các tội đã có.
Hành vi xâm hại trẻ em
1. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
Đây là tội mới được đưa vào BLHS năm 2015. Theo đó, người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng – 03 năm.
Điều luật này cũng quy định phạt tù từ 03 – 07 năm với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Có mục đích thương mại; Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% – 45%; Tái phạm nguy hiểm. Khung hình phạt cao nhất của tội này là 07 – 12 năm tù khi gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm.
2. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Tội này tương đương với Tội hiếp dâm trẻ em được quy định tại Điều 112 BLHS năm 1999. Tại Điều 142 BLHS năm 2015, hành vi của tội này đã được mô tả cụ thể hơn. Theo đó, hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
Tại BLHS năm 2015, khung hình phạt đối với tội này vẫn được giữ nguyên so với quy định tại BLHS năm 1999. Theo đó, người phạm tội sẽ bị phạt thấp nhất là 07 năm tù và cao nhất là tử hình, tùy thuộc vào mức độ phạm tội. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm.
3. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Trong BLHS năm 2015, tội này được quy định tại Điều 144 và được miêu tả là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Mức phạt thấp nhất cho tội này được quy định tại Điều 144 là 05 năm tù và cao nhất là tù chung thân, kèm hình phạt bổ sung – mức phạt không thay đổi so với quy định tại Điều 114 BLHS năm 1999.
4. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Tội này được quy định tại Điều 145 BLHS năm 2015. Theo đó, người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 01 – 05 năm. Nếu có thêm các tình tiết tăng nặng, mức phạt sẽ được tăng dần lên 03 – 10 năm tù và cao nhất là 07 – 15 năm tù. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm. Mức phạt tương đương với quy định tại Điều 115 BLHS năm 1999.
5. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
BLHS năm 1999 quy định tội này tại Điều 116 với mức phạt cao nhất là 12 năm tù khi gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Tại Điều 146 BLHS năm 2015, tội dâm ô với người dưới 16 tuổi được miêu tả cụ thể như sau: Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Người phạm tội này sẽ bị phạt tù với mức phạt thấp nhất là 06 tháng tù và cao nhất là 12 năm tù, kèm với hình phạt bổ sung.
Hỏi đáp Luật sư:
Em tôi bị xâm hại tình dục khi chưa đủ 13 tuổi còn người xâm hại em tôi thì mới có 14 tuổi . Tôi đưa em tôi tới bệnh viện kiểm tra thì người ta nói rằng có tinh dịch nên tôi đưa em tôi đi ra trình báo công an nhưng do người xâm hại em tôi mới có 14 tuổi nên không giải quyết và kêu người nhà tự cho lên viện giám định nhưng khi lên viện giám định pháp y người ta kêu phải có giấy của công an . Cho tôi hỏi luật sư tôi nên giải quyết vấn đề này ra sao mong luật sư giúp đỡ . Tôi mong luật sư trả lời sớm giúp tôi . Chân thành cảm ơn luật sư nếu luật sư chỉ bảo tư vấn giúp.
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty TNHH LegalZone, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Để thuận lợi cho việc tư vấn, tôi xin giả định gọi em gái bạn là A và bạn trai – người xâm hại tình dục là B. Do thông tin bạn cung cấp không rõ ràng nên chúng tôi giả định các trường hợp sau đây:
Trường hợp 1: B đủ 14 tuổi theo luật định:
Theo Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về Tội hiếp dâm trẻ em như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
…”
Như vậy thì mọi hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là hành vi hiếp dâm trẻ em (kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn tự nguyện).
Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Khoản 2 Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về phân loại tội phạm như sau:
“c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Như vậy, tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 1 Điều 142 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng, B cũng đủ 14 tuổi theo luật định. Do đó, nếu B có hành vi giao cấu với A thì B sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, mức phạt tù là từ 07 năm đến 15 năm. Mức phạt tù cụ thể còn tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Trường hợp 2: B chưa đủ 14 tuổi.
Theo quy định tại Điều 12 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đã nêu trên thì nếu B chưa đủ 16 tuổi thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.
Về vấn đề yêu cầu giám định
Điều 22 Luật giám định tư pháp 2012 quy định về Quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp như sau:
“1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.
2. Người yêu cầu giám định có quyền:
a) Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu;
b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định;
c) Đề nghị Toà án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định;
d) Yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.
…”
Như vậy, thông thường việc yêu cầu giám định tư pháp phải được thực hiện thông qua cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu các cơ quan này từ chối yêu cầu giám định thì có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản cho gia đình bạn trong thời hạn 07 ngày. Hết thời hạn này gia đình bạn có quyền tự yêu cầu thực hiện giám định. Do đó, nếu gia đình bạn muốn tự giám định thì cần có văn bản từ chối giám định của cơ quan có thẩm quyền hoặc có giấy tờ chứng minh đã hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày yêu cầu mà cơ quan có thẩm quyền không trả lời yêu cầu giám định của gia đình bạn.
Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo quy định pháp luật tại Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi năm 2009 như sau:
Trường hợp 1: B đủ 14 tuổi theo luật định:
Theo Điều 112, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Tội hiếp dâm trẻ em như sau:
“1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm”
Căn cứ theo quy định tại khoản 4 điều 112 BLHS 1999: “4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.” Như vậy thì mọi hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là hành vi hiếp dâm trẻ em (kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn tự nguyện).
Tuy nhiên B chỉ mới 14 tuổi. Pháp luật quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:“2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Khoản 3 Điều 8, BLHS 1999 quy định: “…, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Như vậy, tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 4 Điều 112 BLHS 1999 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, B cũng đủ 14 tuổi theo luật định. Do đó, nếu B có hành vi giao cấu với A thì B sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, mức phạt tù là từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Mức phạt tù cụ thể còn tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Trường hợp 2: B chưa đủ 14 tuổi.
Điều 12, BLHS 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Do B chưa đủ 14 tuổi nên B chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Như vậy nếu B có hành vi giao cấu với A thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình và có thể B sẽ bị đưa vào trại cải tạo, giáo dưỡng,..
Liên hệ LegalZone ngay hôm nay để được giải đáp bất kỳ vướng mắc pháp lý nào bạn nhé!
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ
LEGALZONE COMPANY
Hotline tư vấn: 088.888.9366
Email: [email protected]
Website: https://legalzone.vn/
Địa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội
———————————-
Tư vấn đầu tư nước ngoài/ Foreign investment consultantcy
Tư vấn doanh nghiệp/ Enterprises consultantcy
Tư vấn pháp lý/ Legal consultantcy
Fb Legalzone: https://www.facebook.com/luatlegalzone.ltd
Danh mục
- Bản quyền tác giả
- Bảo hiểm
- Các loại giấy phép con
- Các loại giấy phép kinh doanh
- Chưa được phân loại
- Đầu tư ra nước ngoài
- Đầu tư tài chính
- Đầu tư trong nước
- Dịch Vụ
- Dịch vụ tố tụng dân sự
- Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
- Doanh nghiệp trong nước
- Đòi quyền lợi trong giải phóng mặt bằng
- Giải quyết tranh chấp về đất đai, thừa kế
- Giải quyết việc hôn nhân, chia tài sản và giành quyền nuôi con
- Giấy khai sinh
- Giấy khai sinh
- Góc nhìn toàn cảnh vụ án hình sự
- Hợp đồng lao động
- Luật bảo vệ môi trường
- Luật bảo vệ môi trường
- Luật dân sự
- Luật Đất Đai
- Luật đầu tư
- Luật giao thông đường bộ
- Luật hình sự
- Luật hóa chất
- Luật Hôn nhân và gia đình
- Luật kinh doanh bất động sản
- luật kinh doanh bất động sản
- Luật nhận con nuôi
- Luật sư
- Luật thuế
- Luật Xây dựng
- nuôi con nuôi
- Pháp luật & đời sống
- Sở hữu trí tuệ
- Sở hữu trí tuệ- Bảo hộ nhãn hiệu
- Thành lập chi nhánh – văn phòng đại diện
- Thành lập công ty 100% vốn nước ngoài
- Thành lập doanh nghiệp
- Thành lập doanh nghiệp
- Thay đổi đăng ký doanh nghiệp
- Thủ tục pháp luật
- Tin tức
- Tranh chấp về các vẫn đề dân sự khác
- Tư vấn cho thân chủ trong vụ án hình sự
- Tư vấn đầu tư 투자 컨설팅 投资咨询
- Tư vấn đầu tư 투자 컨설팅 投资咨询
- Tư vấn doanh nghiệp
- Tư vấn luật Đầu tư
- Tư vấn luật Hình sự
- Tư vấn thủ tục công bố mỹ phẩm
- Tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp
- Tuyển dụng
- Uncategorized
- Xây dựng hợp đồng