Tìm kiếm luật sư Việt Nam

Tư cách tham gia tố tụng

Tư cách tham gia tố tụng

Chuyên mục: Luật dân sự

Tư cách tham gia tố tụng dân sự được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Vậy việc xác định tư cách tham gia tố tụng dân sự được quy định như thế nào? Legalzone giới thiệu đến bạn đọc tư cách tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. 

Tư cách tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự 

  1. Việc xác định tư cách nguyên đơn

Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì nguyên đơn trong vụ án dân sự là:

Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn..

Như vậy, có thể thấy nguyên đơn trong vụ án dân sự không những chỉ là người khởi kiện hay người được cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm mà nguyên đơn trong vụ án dân sự còn là cơ quan, tổ chức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động hơn so với các đương sự khác. Hoạt động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay đình chỉ tố tụng.

Từ nhận định trên có thể thấy, cá nhân, cơ quan, tổ chức được xác định là nguyên đơn cần có những đặc điểm sau:

– Thứ nhất: nguyên đơn được giả thiết có quyền lợi bị xâm hại hay có tranh chấp. Mặc dù nguyên đơn có quyền, lợi ích giả thiết bị xâm phạm nhưng vẫn có thể khởi kiện và được thụ lý vì họ đã cung cấp các chứng cứ ban đầu cần thiết để chứng minh họ có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nguyên tắc thì nguyên đơn phải là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp, có quyền, lợi ích liên quan quan hệ pháp luật nội dung đó.

– Thứ hai: cá nhân, cơ quan, tổ chức có tư cách nguyên đơn khi họ thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước do mình phụ trách hoặc được người khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho họ.

Khi cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người được bảo vệ quyền lợi chính là nguyên đơn, còn chủ thể khởi kiện vì lợi ích của người khác được xác định là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn.

  1. Việc xác định tư cách bị đơn

Theo quy định tại khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì

“Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”.

Một cá nhân, cơ quan, tổ chức được xác định là bị đơn trong vụ án dân sự khi:

– Thứ nhất, là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự khởi kiện.

– Thứ hai, bị đơn là người được giả thiết là có tranh chấp hay xâm phạm đến quyền lợi của nguyên đơn.

Việc xác định tư cách bị đơn trong các vụ án về quan hệ bảo lãnh.Trong quan hệ này, việc xác định tư cách của bị đơn phụ thuộc vào những điều kiện luật định. Chủ nợ có thể khởi kiện người có nghĩa vụ theo quan hệ hợp đồng hoặc theo quan hệ bảo lãnh để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự.

Bị đơn sẽ là người bảo lãnh nếu nghĩa vụ đến hạn phải thực hiện nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. 

Việc xác định tư cách bị đơn trong các vụ án về quan hệ pháp luật sở hữu. Bị đơn trong quan hệ pháp luật sở hữu thường là bên vi phạm quyền sở hữu của chủ thể khác. Pháp luật dân sự hiện hành có sự phân biệt giữa tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu.

Đối với động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì chủ sở hữu chỉ có quyền khởi kiện người chiếm hữu ngay tình để đòi lại tài sản trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người có quyền định đoạt tài sản. Trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu – kiện vật quyền.

Việc xác định tư cách bị đơn trong các vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngTrong các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người bị thiệt hại phải khởi kiện người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự. Khi đó người bị khởi kiện chính là bị đơn.

Đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì bị đơn là người có trách nhiệm trong quan hệ bồi thường. Người bị khởi kiện được xác định là bị đơn trong vụ án dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, người được chủ sợ hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiêm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật; người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại.

  1. Việc xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:

“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

Xác định tư cách tham gia tố tụng dân sự trong việc dân sự

Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người tuy không yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc dân sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự.

>>> Tham khảo: Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

Ý nghĩa của việc xác định tư cách tố tụng của đương sự

Việc xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án, bởi mỗi đương sự có một tư cách tố tụng riêng biệt và tương ứng với đó là các quyền, nghĩa vụ mà BLTTDS 2015 đã quy định cho họ.

Các đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng dân sự, đương sự có quyền, nghĩa vụ chung quy định tại Điều 70 của BLTTDS 2015. Ngoài ra còn có các quyền, nghĩa vụ riêng đối với từng tư cách tố tụng, cụ thể: nguyên đơn có quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 71 BLTTDS 2015; bị đơn có quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 72 BLTTDS 2015; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 73 BLTTDS 2015.

Trường hợp xác định sai tư cách tố tụng của đương sự hoặc đưa thiếu đương sự liên quan vào tham gia tố tụng trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của họ, làm họ không có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Qua đó làm sai lệch bản chất của vụ án và đây được coi là một vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Trên đây là nội dung tư cách tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Liên hệ ngay với Legalzone để được tư vấn và hỗ trợ.

Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ

LEGALZONE COMPANY

Hotline tư vấn:  0989.919.161

Email: [email protected]

Website: https://legalzone.vn/

Địa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội

———————————-

Tư vấn đầu tư nước ngoài/ Foreign investment consultantcy

Tư vấn doanh nghiệp/ Enterprises consultantcy

Tư vấn pháp lý/ Legal consultantcy

Fb Legalzone: https://www.facebook.com/luatlegalzone.ltd

 

Tìm kiếm

VD: đơn ly hôn, ly hôn đơn phương, tư vấn luật, tư vấn pháp luật, đơn khởi kiện, luật sư tư vấn…

tu-van-phap-luat-theo-gio.png

ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN

Chọn vai trò người dùng để bắt đầu đăng ký