Vi phạm pháp luật khi công khai thông tin đời tư của người khác trên mạng
Đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc đời sống riêng tư của người khác vi phạm điều luật nào?
Theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình được bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Điều này bao gồm:
- Bất khả xâm phạm: Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, và bí mật gia đình không thể bị xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
- Đồng ý của cá nhân: Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng và công khai thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của người liên quan. Đối với bí mật gia đình, cần được sự đồng ý của tất cả các thành viên gia đình, trừ khi luật có quy định khác.
- Bảo mật thông tin: Các hình thức trao đổi thông tin riêng tư như thư tín, điện thoại, và cơ sở dữ liệu điện tử phải được bảo đảm an toàn và kín đáo.
- Giới hạn tiết lộ thông tin: Các bên trong một hợp đồng không được phép tiết lộ thông tin mà mình biết được về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, và bí mật gia đình của nhau, trừ khi có thỏa thuận khác.
Do đó, việc đưa thông tin thuộc đời sống riêng tư của người khác lên không gian mạng vi phạm quy định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015.
Có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc đời sống riêng tư của người khác?
Hành vi này có thể bị xử lý hình sự theo tội lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Căn cứ vào Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015, các trường hợp sau được quy định:
- Hình phạt thông thường: Nếu ai đó lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp và các quyền tự do khác để xâm phạm lợi ích của Nhà nước hay tổ chức cá nhân, thì sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ tối đa 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
- Hình phạt nặng: Nếu hành vi này gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mức phạt có thể từ 2 năm đến 7 năm tù.
Vì vậy, hành vi đưa thông tin thuộc đời sống riêng tư của người khác lên không gian mạng có thể chịu hình phạt hình sự theo Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015.
Những trường hợp nào được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật hiện nay?
Theo Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 và các quy định liên quan, có thể miễn trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp bao gồm:
- Thay đổi chính sách pháp luật: Nếu trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, chính sách pháp luật thay đổi khiến hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Quyết định đại xá: Khi có quyết định đại xá từ cơ quan có thẩm quyền.
- Diễn biến tình hình: Nếu người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa do tình hình biến đổi hoặc vì sức khỏe nghiêm trọng.
- Tự thú và giúp đỡ điều tra: Người phạm tội tự thú trước khi bị phát giác và giúp cơ quan chức năng phát hiện, điều tra tội phạm cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
- Bồi thường thiệt hại: Trường hợp gây thiệt hại nhẹ do vô ý và đã tự nguyện khắc phục hoặc bồi thường, được người bị hại hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Vậy nên, nếu người phạm tội thuộc những trường hợp này, họ có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong quá trình điều tra hoặc xét xử.



