Bản án về yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
Tóm tắt nội dung vụ án
Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Th tự tìm hiểu và tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn từ năm 2004, do chị lúc đó chưa đủ tuổi, đã được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi. Quá trình chung sống thời gian đầu có hạnh phúc. Nhưng sau một thời gian vợ chồng lại mâu thuẫn, nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được chị quyết định làm đơn yêu cầu Tòa án không công nhận giữa chị và anh Th là vợ chồng.
Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Cao Hải N sinh ngày 14/10/2006 và Cao Đức G sinh ngày 15/12/2009, cả hai con đang ở với vợ chồng. Nếu anh Th không đồng ý cho chị nuôi hai con và không chấp nhận cấp dưỡng nuôi con G thì nay chị cũng nhất trí ý kiến anh Th là: Để anh Th nuôi con N còn chị nuôi con G hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Nhưng phải cho chị thăm nom chăm sóc con N mà anh Th không được cản trở. Về tài chung của vợ chồng có nhưng đã tự thỏa thuận xong với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nhận định của Tòa án
Việc anh, chị không đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình, nên hôn nhân của anh chị không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Nay chị N xin ly hôn, anh T đồng ý ly hôn, Tòa án cũng không xem xét mâu thuẫn của anh chị để cho hay không cho ly hôn, mà trường hợp của anh chị chỉ căn cứ vào khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ giữa chị N và anh T là vợ chồng là phù hợp.
Quá trình hòa giải ngoài Tòa án, anh chị đã thỏa thuận thống nhất được về việc: chị N trực tiếp nuôi dưỡng con G, anh T trực tiếp nuôi dưỡng con N sau khi hai bên không còn cùng chung sống, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Xét thấy thỏa thuận của anh chị tại quá trình hòa giải là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, đảm bảo được quyền, lợi ích của con chung nên cần được công nhận.
Luận cứ vụ án
Căn cứ vào Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình, cần xác định chị N và anh Th không phải vợ chồng.
Trên đây bài tư vấn của chúng tôi Tóm tắt bản án số 12/2022/HNGĐ-ST, nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệ
Địa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội
Email: [email protected]
Danh mục
- Bản quyền tác giả
- Bảo hiểm
- Các loại giấy phép con
- Các loại giấy phép kinh doanh
- Chưa được phân loại
- Đầu tư ra nước ngoài
- Đầu tư tài chính
- Đầu tư trong nước
- Dịch Vụ
- Dịch vụ tố tụng dân sự
- Điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
- Doanh nghiệp trong nước
- Đòi quyền lợi trong giải phóng mặt bằng
- Giải quyết tranh chấp về đất đai, thừa kế
- Giải quyết việc hôn nhân, chia tài sản và giành quyền nuôi con
- Giấy khai sinh
- Giấy khai sinh
- Góc nhìn toàn cảnh vụ án hình sự
- Hợp đồng lao động
- Luật bảo vệ môi trường
- Luật bảo vệ môi trường
- Luật dân sự
- Luật Đất Đai
- Luật đầu tư
- Luật giao thông đường bộ
- Luật hình sự
- Luật hóa chất
- Luật Hôn nhân và gia đình
- Luật kinh doanh bất động sản
- luật kinh doanh bất động sản
- Luật nhận con nuôi
- Luật sư
- Luật thuế
- Luật Xây dựng
- nuôi con nuôi
- Pháp luật & đời sống
- Sở hữu trí tuệ
- Sở hữu trí tuệ- Bảo hộ nhãn hiệu
- Thành lập chi nhánh – văn phòng đại diện
- Thành lập công ty 100% vốn nước ngoài
- Thành lập doanh nghiệp
- Thành lập doanh nghiệp
- Thay đổi đăng ký doanh nghiệp
- Thủ tục pháp luật
- Tin tức
- Tranh chấp về các vẫn đề dân sự khác
- Tư vấn cho thân chủ trong vụ án hình sự
- Tư vấn đầu tư 투자 컨설팅 投资咨询
- Tư vấn đầu tư 투자 컨설팅 投资咨询
- Tư vấn doanh nghiệp
- Tư vấn luật Đầu tư
- Tư vấn luật Hình sự
- Tư vấn thủ tục công bố mỹ phẩm
- Tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp
- Tuyển dụng
- Uncategorized
- Xây dựng hợp đồng