Dịch vụ luật sư - Tư vấn pháp luật

Đặt câu hỏi

Dịch vụ luật sư, tư vấn pháp luật

Nguyên tắc suy đoán vô tội

Nguyên tắc suy đoán vô tội

Xử lý hành vi không hợp tác với Toà án và các cơ quan chức năng trong qúa trình giải quyết vụ án dân sự

Việc đảm bảo các nguyên tắc trong BLTTHS  thì có thể giải quyết tích cực các vấn đề này trước hết nằm trong việc nhìn nhận lại tính chất và đặc trưng TTHS, cũng như sự hoàn chỉnh và đầy đủ của các quy định pháp luật mà trung tâm là pháp luật TTHS. Cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam đã được phát động từ năm 2005 qua Nghị quyết số 49- NQ/TW năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2019 và đã gặt hái được những kết quả nhất định về nhận thức và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, những chủ trương đúng đắn của chính sách hình sự và cải cách tư pháp hình sự cho đến thực tiễn TTHS vẫn còn một khoảng cách lớn. Một trong những nguyên tắc đã được cụ thể hóa theo tinh thần Hiến pháp 2013 là nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong BLTTHS 2015. Legalzone giới thiệu đến bạn đọc nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội

Cơ sở pháp lý của nguyên tắc suy đoán vô tội

      Với tư cách là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhât, là những quy phạm pháp luật cơ bản và quan trọng nhất để các văn bản quy phạm pháp luật khác cụ thể hóa.

      Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định :

      “ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”

      Điều 13 BLTTHS 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội:

      “ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”

    Như vậy,khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. và nó đã thể hiện ở từng điều luật quy định ở giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải thể hiện được tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội này.

    Nguyên tắc suy đoán  vô tội đặt ra những đòi hỏi cụ thể hơn mà tố tụng hình sự phải đảm bảo đó là:

      Bị can, bị cáo phải được coi là vô tội cho tới khi lỗi của bị can, bị cáo đó được chứng minh:

      Tức là” nếu lỗi không được chứng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh”. Yêu  cầu này đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự.

Yêu cầu đặt ra trong nguyên  tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị mà theo đó, mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không một ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ;

người bị buộc tội là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.

      Việc truy tố và xét xử một người phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định

      Phải bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác dịnh vô tội, các tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

      Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về người buộc tội.

      Bị can, bị cáo không có trách nhiệm chứng minh sự vô tội của mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng không được bắt buộc bị can, bị cáo thực hiện trách nhiệm đó dưới bất kỳ hình thức nào.Tuy nhiên,  quy định này chưa thực sự chính xác khi nói

“ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng”, bởi đòi hỏi của nguyenn tắc này là trách nhiệm đó phải và chỉ thuộc về cơ quan buộc tội, người buộc tội.

      Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong các quy trình thu nhập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác. 

Tuy nhiên, quy định nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình mà chưa chỉ rõ trong những trường hợp nào của quá trình tố tụng và không xác định việc nghiêm cấm các hành vi tố tụng bất hợp pháp khác.

      Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội

      Bản án kết tội phải dưạ trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên toàn, chứng minh bị cáo có tội. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nếu ra nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

      Bị can, bị cáo có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan và người buộc tội.

      Mọi hoài nghi về lỗi của bị can, bị cáo cần được giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.

Trong thực tiễn, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ của trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến lỗi của bị can, bị cáo mà cả quá trình tố tụng và các nỗ lực của cơ quan tiến hành tố tụng đã không làm rõ, dẫn đến hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính là các cơ quan đó không thể khắc phục được.

Những hoài nghi  đó nhất thiết phải được giải quyết theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Đây là một nội dung quan trọng và trong tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản chất nhân đạo của TTHS dân chủ và pháp quyền

     Từ quy định của Hiến pháp 2013 đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho công dân trong cuộc sống và hoạt động của họ.

Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị năm 1966 mà theo đó, mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị gia giữ vô cớ; người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.

      Có thể thấy nội dung của nguyên tắc này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế nhưng nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho viẹc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện.

Công  ước nói trên của Liên hợp quốc khẳng định: “ Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định”.

Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội

Khái niệm suy đoán vô tội

      Nguyên tắc suy đoán có tội và nguyên tắc suy đoán vô tội đều là những nguyên tắc của tố tụng hình sự. Nhưng nguyên tắc suy đoán có tội là nguyên tắc của tố tụng thẩm vấn (inquisitorial), còn nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc điển hình của tố tụng tranh tụng (adversarial).

      Nguyên tắc “ suy đoán vô tội” là nguyên tắc mà “ người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Đồng thời, “người bị bắt,tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điêu tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư  hoặc người khác bào chữa”.

Quy định này bảo đảm rằng người bị khởi tồ, điều tra, truy tố, xét xử hình sự được coi là không có tội cho đến khi hành vi phạm tội của họ được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

uy nhiên, khi những người này tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo thì các chủ thể tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện các quyền hiến định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội

      Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà luật học song tựu trung lại thì gồm 3 nội dung cơ bản sau:

      Người bị tình nghi, bị can, bị cáo được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực của tòa án kết tội đói với người đó

      Nghĩa vụ chứng minh một người có tội thuộc về bên trách nhiệm buộc tội. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo  có quyên chứng minh mình vô tội nhưng không phải là nghĩa vụ.

      Khi có những nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ xuất hiện thì những nghi ngờ này được hiểu và giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo .

      Nội dung này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế nhưng nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất  chế độ pháp quyền, theo đó thủ tục công khai, minh bạchlà đòi hỏi một số cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện.

Công ước của Liên hợp quốc khẳng định: “ Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do là có lý do và theo đúng nhưng thủ tục mà pháp luật quy định”

      Xác định rõ đối tượng của nguyên tắc suy đoán vô tội là” ngươi bị buộc tội” mà theo quy định của BLTTHS 2015 , người bị buộc tội bao gồm : người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

      Khẳng định rõ ràng “ người bị buộc tội được coi là người không có tội” để cơ quan tiến hành tố tụng, ngươi tiến hành tố tụng và cả xã hội nhận thức rõ những người bị áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự phải là người không có tội và họ được đảm bảo các quyền lợi của người không có tội trong suốt qua trinh điều tra, truy tố xét xử.

Là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động của cơ quan tư pháp cũng như thể chế hóa các quy định trong BLTTHS và các văn bản có liên quan.

      Xác  định phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện pháp theo luật định để buộc tội một người và kết thúc khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tòa án, đồng thời xác định một người vô tội cũng phải có điều kiện cần và đủ.

Điều kiện cần là người đó phải được chứng minh bằng quy trình luật định, điều nay có nghĩa là các biện pháp và trình tự chứng minh một người vô tội phải hợp pháp, nếu không hợp pháp hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng thì không đủ cơ sở kết tội người đó.

Điều kiện này đặt ra yêu cầu rất quan trọng cho VKSND với chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.

Điều kiện đủ là phải có một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án mới có thẩm quyền xác định người có tội, các quyết định của cơ quan tiến hành tố  tụng trước đó như cơ quan điều tra, VKS không có ý nghĩa xác định một người có tội.

      Xác định trách nhiệm chứng minh một người có tội thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.

Nhưng quan trọng hơn nội dung của điều luật cũng thể hiện rõ cùng với trách nhiệm buộc tội thì cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm chứng minh người đó khônh phạm tội, đồng thời bảo đảm các quyền để người đó bảo vệ mình không có tội như quyền được bào chữa hoặc nhờ người bào chữa và người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội

   Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện nguyên tắc này chưa thực sự đầy đủ và triệt để. Những người được phân công các nhiệm vụ này hình như bị chi phối bởi một suy nghĩ phải chứng minh cho được người bị tình gnhi hoặc bị can, bị cáo đã phạm tội, chứ không phải là chứng minh họ có tội hay không.

Từ nhận thức đó, nên các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đều nhằm mục đích chứng minh việc phạm tội của họ.

Khi đã chứng minh được họ phạm tội thì coi như cán bộ này đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, được tính thành tích, mà lẽ ra, khi bắt, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử một người mà xác định người đó không có tội mới là chỉ số thành tích cao nhất, tốt nhất cảu việc thực thi công lý, vì đã minh oan được cho số phận một con người.

Điều nay là cốt tử đối với những người đối diẹn với án tử mà thực ra là họ bị oan sai.

       Chính vì không nhận thức được đầy đủ nguyên tắc suy đoán vô tội nên một số điều tra viên, vì nôn nóng, bức xúc trước trách nhiệm điều tra được phân công, đã phải dùng đến những biện pháp vi phạm pháp luật TTHS như búc cung, dụ cung, thậm chí cả nhục hình chỉ để lấy lời khai nhận tội của bị can và kết thúc vụ án.

Vì sợ hãi hay vì lí do nào đó mã những người nay buộc phải nhận tội để tránh những biện pháp đau đớn kia và mong muốn ra Tòa sẽ khai đúng sự thật. Nhưng đến Tòa cũng lại vấp phải cái tư duy của người xét xử về nghĩa vụ của bị cáo phải chứng minh là minh bị bức cung, nhục hình thì Tòa mới có cơ sở xem xét.

Như vậy là tại phiên tòa, Tòa án đã buộc bị cáo phải có nghĩa vụ chứng minh lơi khai của mình về sự vô tội, trong khi đó, nghĩa vụ chứng minh lại không phải của họ.

Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội

      Đây là một nguyên tắc có ý nghĩa chính trị to lớn, và vì thế đã vượt ra ngoài phạm vi và nội dung pháp lý của nó nhằm ghi nhận địa vị của con người, tự do và dân chủ, ghi nhận mối liên hệ giữa tự do và trách nhiệm, dân chủ và pháp luật trong xã hội.

      nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ.

 Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.

Ví dụ, nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…

      Mục đích của TTHS là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

Tuy nhiên, trong thực tế có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định.

 Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”

      Áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng để tránh oan sai. Thự tế chứng minh như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn, nếu ngay đầu tiên áp dụng nguyên tắc này thì đã không có chuyện cố chứng minh ông Chấn phạm tội, dựng lại hiện trường dẫn tới oan sai.

      Từ đó, chúng ta có thể rút ra được một ý nghĩa to lớn của nguyên tắc này:

     Một là, nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ đáp ứng yêu cầu chứng minh: Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý của người bị buộc tội.

Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá bằng sinh mệnh của con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đoán có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể.

Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội là hết sức nguy hiểm. Nó đồng nhất người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội.

Lúc đó, có bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp được toàn bộ.

     Hai là, nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo.

Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền.

Suy đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo.

 

Như vậy, không chỉ là quyền của người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự:  Một người luôn vô tội khi nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội.

  Ba là, nguyên tắc suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa. Bởi vì nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ còn là hình thức.

 Người bào chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Họ được nghiên cứu hồ sơ vụ án trên cơ sở am hiểu các quy định của pháp luật và được bị cáo hoặc gia đình bị cáo ủy quyền để bảo vệ cho các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.

Sự có mặt của người bào chữa nhằm đưa ra các luận cứ chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận đồng ý hay không đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát buộc tội. Đảm bảo quyền bào chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền con người.

Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ Luật sư, người khác bào chữa của những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.

     Việc thiết lập nguyên tắc suy đoán vô tội có tác dụng kép:

      Thứ nhất, đó là lời cảnh báo thường xuyên đối với những người được xã hội giao chức năng gìn giữ, bảo đảm trật tự xã hội kèm theo quyền sử dụng công lực để thực hiện chức năng ấy.

 

Họ phải thực hiện phận sự một cách mẫn cán, cẩn trọng, chặt chẽ và có trách nhiệm. Họ phải hiểu rằng nhiệm vụ của họ không chỉ để vạch mặt, chỉ tên tội phạm một cách chính xác mà còn tránh gây tai họa cho người hiền lương.

      Thứ hai, nó mở lối ra cho những vụ án đi vào ngõ cụt, khi mà dù đã làm hết cách, cơ quan có thẩm quyền không trả lời được câu hỏi: Ai thực sự là tác giả của hành vi được gọi là tội phạm?

Nguyên tắc suy đoán vô tội  có tác dụng giảm bớt tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ án do phải điều tra bổ sung theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Tòa án, nên hồ sơ vụ án phải trả đi trả lại nhiều lần, theo quy định tại khoản 2 Điều 174; điểm b khoản 1 Điều 240 và Điều 280 BLTTHS năm 2015.

Trên đây là nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Liên hệ với Legalzone để được tư vấn và hỗ trợ nhé!

Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ

LEGALZONE COMPANY

Hotline tư vấn:  088.888.9366

Email: [email protected]

Website: https://legalzone.vn/

https://thutucphapluat.vn/

Địa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội

———————————-

Tư vấn đầu tư nước ngoài/ Foreign investment consultantcy

Tư vấn doanh nghiệp/ Enterprises consultantcy

Tư vấn pháp lý/ Legal consultantcy

Fb Legalzone: https://www.facebook.com/luatlegalzone.ltd

Chia sẻ:
{{ reviewsTotal }}{{ options.labels.singularReviewCountLabel }}
{{ reviewsTotal }}{{ options.labels.pluralReviewCountLabel }}
{{ options.labels.newReviewButton }}
{{ userData.canReview.message }}
Danh mục